Quyết định sản xuất chip tại Việt Nam được đưa ra đúng thời điểm

Bùi Quốc Khánh
Ba giảng viên Đại học RMIT vừa đưa ra nhận định về tiềm năng của Việt Nam để trở thành cường quốc sản xuất chip bán dẫn.

Quyết định phù hợp với định hướng “Make in Vietnam”

Các phương tiện truyền thông thời gian gần đây đưa tin rộng rãi về sự quan tâm của nước ngoài đối với ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam, từ dự định đào tạo kỹ sư thiết kế chip, đến đầu tư vào các cơ sở sản xuất linh kiện và vật liệu bán dẫn.

Hồi giữa tháng 6, doanh nghiệp viễn thông lớn của Việt Nam là Viettel đã đề xuất tự sản xuất chip trong bối cảnh khan hiếm chip trên toàn cầu. Và ngày 28/9 vừa qua, FPT Semiconductor - Công ty thiết kế và sản xuất chip vi mạch thuộc tập đoàn FPT) đã ra mắt dòng chip vi mạch đầu tiên ứng dụng trong sản phẩm Internet vạn vật (IoT) cho lĩnh vực y tế, hiện thực hóa giấc mơ sản xuất linh kiện bán dẫn khởi tạo bởi trí tuệ Việt.

chip-ban-dan-make-in-vietnam-1-855-1664904668.jpg
Mẫu tấm wafer chip vi mạch đầu tiên của FPT Semiconductor (Ảnh doanh nghiệp cung cấp)

Ba giảng viên RMIT là Tiến sĩ Majo George, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (khoa Kinh doanh và quản trị) và Thạc sĩ Nguyễn Lê Huy (khoa Khoa học, kỹ thuật và công nghệ) vừa chia sẻ quan điểm về khả năng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.

Theo phân tích của Tiến sĩ Majo George, dịch Covid-19 đưa đến tình trạng thiếu hụt chip nghiêm trọng trên toàn cầu. Đại dịch ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất tại 4 “công xưởng” sản xuất bán dẫn lớn nhất châu Á - Thái Bình Dương gồm Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Xu hướng làm việc tại nhà cũng làm tăng doanh số bán máy tính xách tay, hệ thống giải trí tại gia và máy chơi game, khiến nhu cầu về chip gia tăng và mất cân bằng cung-cầu trên thị trường.

Vì thế, Tiến sĩ Majo George nhận định rằng quyết định sản xuất chip tại Việt Nam đã được đưa ra đúng thời điểm, khi thế giới đang thiếu chip còn Việt Nam thì đang triển khai công cuộc chuyển đổi kỹ thuật số, bao gồm chuyển đổi sang chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Bước chân vào lĩnh vực sản xuất chip sẽ là cơ hội để Việt Nam tự phát triển hoặc tiếp nhận chuyên môn công nghệ tiên tiến nhất. Bước tiến này có thể đầy thách thức nhưng đồng thời cũng sẽ thúc đẩy Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất nổi bật của khu vực trong tương lai.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, giảng viên khoa Kinh doanh và quản trị, Đại học RMIT cũng cho rằng, việc sản xuất chip ở Việt Nam phù hợp với định hướng phát triển “Make in Vietnam”. “Hầu hết mọi khía cạnh của xã hội hiện đại đều cần đến chất bán dẫn. Nếu thành công trong ngành công nghiệp bán dẫn, Việt Nam sẽ “chen chân” vào được chuỗi cung ứng của các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao như thiết bị truyền thông, máy tính, thiết bị y tế hay thiết bị quân sự”, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ.

Cần có chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra rằng còn nhiều phải làm để có thể đưa Việt Nam trở thành một cường quốc về sản xuất chip bán dẫn. Tiến sĩ Majo George đề xuất: Cần ưu tiên đảm bảo chất lượng cho chip bán dẫn sản xuất tại Việt Nam, cũng như nghiên cứu và cập nhật sản phẩm định kỳ. Các ngành công nghiệp trong nước có thể mua chip sản xuất nội địa.


“Việc tuyển dụng các nhà nghiên cứu và chuyên gia có tay nghề cao và giàu kinh nghiệm sẽ là một thách thức. Việt Nam sẽ phải tăng cường đào tạo và phát triển lao động có kỹ năng trong nước, có thể là thông qua hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu có uy tín”, Tiến sĩ Majo George nhận định.

chuyen-gia-rmit-858-1664904720.jpg
Ba chuyên gia của Đại học RMIT từ trái qua: Tiến sĩ Majo George, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng và Thạc sĩ Nguyễn Lê Huy (Ảnh: M.Ngọc) 


Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, để xây dựng được một nền công nghiệp bán dẫn cạnh tranh thì không chỉ cần có vốn đầu tư; việc tiếp cận công nghệ phù hợp, xây dựng chuỗi cung ứng để đảm bảo nguồn cung và thị trường tiêu thụ ổn định sẽ là một bài toán nhiều ẩn số.

Quy trình sản xuất chip bán dẫn có 3 công đoạn chính gồm thiết kế; sản xuất; lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói. Giai đoạn 1 và 2 là những quy trình có nhiều giá trị và hàm lượng công nghệ cao, gắn liền với nghiên cứu và phát triển (R&D), phần mềm chuyên dụng cho thiết kế và các thiết bị sản xuất đặc thù. Giai đoạn 3 có hàm lượng lao động cao và các rào cản thấp nhất.

“Tham gia giai đoạn 3 có vẻ là dễ dàng nhất với Việt Nam ở thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, mục tiêu chính của việc Việt Nam tham gia thị trường đầy cạnh tranh này nên là thúc đẩy năng lực thiết kế chip và tiến tới sản xuất linh kiện bán dẫn cao cấp”, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng nêu quan điểm.

Nhận định việc tham gia vào quy trình R&D, thiết kế, sản xuất và cung ứng chip bán dẫn toàn cầu sẽ mang đến lợi thế kinh tế lớn cho Việt Nam, Thạc sĩ Nguyễn Lê Huy, giảng viên khoa Khoa học, kỹ thuật và công nghệ của Đại học RMIT đề xuất cần có chiến lược trung và dài hạn để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn trong nước.

Về trung hạn, theo vị chuyên gia này, Việt Nam cần tham gia vào những công đoạn R&D đòi hỏi chủ đạo là yếu tố con người. Chính phủ cần tiếp tục đầu tư và đưa ra chính sách ưu đãi để thu hút các tập đoàn lớn trên thế giới trong lĩnh vực bán dẫn như Samsung, Intel, Synopsys, Cadence... thành lập hoặc mở rộng các trung tâm nghiên cứu và thiết kế ở Việt Nam. Song song đó, cần có chính sách hỗ trợ các trường đại học trong nước đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực bán dẫn.

“Về dài hạn, Việt Nam cần nỗ lực đạt được những thỏa thuận hợp tác hỗ trợ chuyển giao công nghệ với các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ đó tiến tới tự chủ hoàn toàn tất cả các công đoạn quan trọng trong quy trình sản xuất bán dẫn” Thạc sĩ Nguyễn Lê Huy đề xuất.

ĐĂNG KÝ HỘI VIÊN